Cuộc đời Đức Phật Thích Ca

Nhắc đến Phật Giáo thì không thể nào không nhắc đến Đức Phật Thích Ca. Bạn có biết rằng, Đức Phật Thích Ca đã trải qua con đường tu hành như thế nào để trở thành người sáng tạo ra Đạo Phật được lưu truyền đến ngày nay. Cùng đồ thờ tượng Phật Nhân Thúy tìm hiểu về cuộc đời Đức Phật Thích Ca thông qua bài viết dưới đây.

Đức Phật đản sinh
Cách đây hơn 2.600 năm về trước, nhìn về phía Bắc Ấn Độ xa xa dưới dãy Hymalapson, nơi đây có tiểu vương quốc với kinh đô là thành Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ) do Suddhodana (Cha Đức Phật Thích Ca) trị vì.
Vào một mùa xuân năm nọ, hoàng hậu Maya trên đường về quên mẹ để chờ ngày khai hoa nở nhụy. Trên đường đi, đoàn người của hoàng hậu đã dừng lại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni) nghỉ ngơi. Trong vườn có muôn hoa đua nở, đặc biệt có cây Voau, hoa nở rất đẹp. Lúc bấy giờ, nhánh cây Voau xà xuống đề hoàng hậu vịn lấy, liền lúc ấy hoàng hậu đã hạ sanh thái tử Tất Đạt Đa họ Cồ Đàm và cũng chính là Đức Phật sau này.
Theo kinh điển ghi lại, thì khi Đức Phật được hạ sinh, Ngài liền đi 7 bước, 1 tay chỉ trời, 1 tay chỉ đất và cất tiếng nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Khi ấy, đại địa rung động và trên trời tuôn xuống những giọt mưa.
Trong 7 bước của Thế tôn, 6 bước đầu là tượng trưng cho lục đạo cũng chính là: Địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, trời, người, A-tu-la. Đây là lục đạo luân hồi và bước thứ 7 là biểu hiện cho một cảnh giới mới đã vượt ra khỏi thế giới mê hoặc để ngộ nhập vào chánh đạo.
Đản sanh của Đức Phật là ngày mùng 8 tháng 4 Âm lịch, bây giờ được xem là ngày lễ dâng hoa tắm Phật, mừng ngày Đản sanh. Sau khi hạ sanh thái tử được 7 hôm thì hoàng hậu Maya băng hà, việc nuôi dưỡng Thái tử Tất Đạt Đa trông nhờ vào người dì là Ma-ha-ba-xà-ba-đề.
Khi lớn lên, Thái tử văn võ song toàn và là niềm kì vọng của toàn dân trong nước. Thế nhưng, trong lòng thái tử hay ưu sầu đa cảm. Một ngày nọ, Thái tử theo vua cha ra ngoài để dự lễ hạ điền. Nhìn thấy cảnh tượng tương tàn của loài vật, con giun bị con chim sẻ ăn, con chim sẻ lại là món ăn của con chim ưng. Thái tử Tất Đạt Đa mỗi ngày ảo não không vui và hay trầm tư suy nghĩ. Trông thấy thái tử như thế, Phụ vương Tịnh Phạn cũng đau lòng khôn xiết, liền tìm mọi cách để Thái tử vui trở lại.
Khi Thái Tử đến tuổi thành thân, Đức Vua đã cử hành hôn lễ cho ngài với công chúa Da-du-đà-la của thị tộc Koli. Thế nhưng, tâm sự của Thái tử vẫn không sao lắng dịu. Vào một hôm, Thái tử đi ra cửa thành phía đông để du ngoạn nhìn thấy một người già, Ngài liền nghĩ sẽ già rồi chết đi giống họ. Rồi nghĩ rằng trần gian là bể khổ. Tuy nhiên, sau khi thấy vị tu sĩ với phong thái an lạc, Ngài cũng phát nguyện muốn được tu hành.
Con đường tu hành của Đức Phật Thích Ca

Sau khi bỏ lại tất cả vinh hoa phú quý, Ngài cưỡi bạch mã đến khu rừng phía dưới chân Tuyết Sơn để tu hành. Ngài bắt đầu theo lối tu hành khổ hạnh cùng các đồng tu của mình. Theo đó, ngài phải ăn rất ít và dành phần lớn thời gian để ngồi thiền. Trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh, Ngài nhận ra rằng bản thân đã tu hành sai phương pháp. Khi ấy, do tu hành khổ hạnh, Ngài không được ăn uống nên ngất dưới chân cây Bồ Đề và được một cô gái cứu bằng bát sữa bò.
Từ khi nhận thức được phương pháp tu hành đúng đắn là tu hành trung đạo. Ngài thiền định dưới gốc cây Bồ Đề đối mặt với những u khổ, phiền não. Đến ngày thứ 49, trong lúc ngồi thiền, Ngài đã đạt tới cảnh giới giác ngộ mặc cho những phiền khổ, ái dục, tham vọng đến quấy phá.
Theo sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN. Ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Biết rằng mình là một vị Phật đã Giác Ngộ và sẽ không còn tái sinh thêm lần nào nữa nên Ngài đã đem kinh nghiệm tu hành của mình ghi lại thành kinh sách.
Con đường truyền giảng giáo lý
Sau khi giác ngộ, Ngài mang sứ mệnh giải thoát cho chúng sinh mà đi khắp nơi truyền giáo. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người.
Trong 45 năm, ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Cũng thông qua những lời dạy của mình về chân lý, Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ), ưu-bà-di (nữ cư sĩ). Ông cùng các đệ tử của mình, nổ lực truyền giáo, giúp các chúng sinh thoát khỏi khổ đau trong 49 năm kể từ khi giác ngộ.
Đức Phật nhập niết bàn
Theo kinh Đại bát-niết-bàn, vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên.
Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, các vị đã im lặng vì thương Thế Tôn đang rất yếu. Lời dạy cuối cùng của ông: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học !”
Sau khi Đức Phật niết bàn, xá lợi của Ngài được chia ra thờ cúng. Đến ngày nay, Đạo Phật được truyền bá rộng rãi cùng với đó là hàng nghìn kinh sách được lưu truyền. Đạo Phật hướng con người đến giải thoát, đến sự an lạc thoát khỏi những muộn phiền khổ đau trong cuộc sống. Có thể nói, đây là một trong những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng với châu Á mà còn cho lịch sử loài người.
Quý khách hàng có nhu cầu vui lòng liên hệ thông tin sau:
CƠ SỞ SẢN XUẤT ĐỒ THỜ NHÂN THÚY
- Địa chỉ: Thôn Rô, Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội
- Điện thoại: 0987260688 0858658858
- E-mail: nhan.dotho.mynghe@gmail.com
Bình luận